Một vài bất cập khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi
Nội dung bài viết
Vướng mắc, bất cập
Hiện nay, quy định của pháp luật hình sự đối với các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi được quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) và Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/22019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các Điều 141, 142, 143, 144, 145, 146, 147 của Bộ luật Hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi (Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP), cơ bản đã khắc phục được những điểm bất cập, hạn chế của các quy định pháp luật trước đây. Tuy nhiên, thực tiễn việc định tội danh, xác định thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn tạm giam khi xét xử các vụ án này còn có một số bất cập nhất định.
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Một là, còn có quan điểm trái chiều trong việc định tội danh. Quy định về mặt khách quan tại các Điều 145, 146 BLHS không mô tả hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác… để giao cấu, thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và không phụ thuộc vào việc có trái ý muốn của nạn nhân hay không như các điều luật khác quy định về hành vi xâm hại tình dục. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP quy định: “Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi …” đã liệt kê hành vi dâm ô có yếu tố dùng vũ lực; khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP khái niệm: “Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục… Như vậy, trong trường hợp một người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực để thực hiện hành vi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục, trái ý muốn nạn nhân thì phải định tội danh gì.
Ví dụ: Nguyễn Văn A. là người trên 18 tuổi, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Lợi dụng đêm tối, không có sự quản lý của cha, mẹ của nạn nhân, A. đã lén lút đột nhập vào nhà của anh Lê Văn B.; sau đó, A. dùng dây trói chân, dùng băng keo bịt miệng cháu Lê Thị T. (11 tuổi, con ruột anh B). Cháu T. chống đối, A .không cởi quần áo của A. và T. mà chỉ thực hiện hành vi hôn vào môi, cổ cháu T., sau đó xuất tinh. Nghe tiếng động, cháu Lê Thế P. (em ruột T.) chạy sang phòng T. Sợ bị lộ, A. bỏ chạy.
Trong tình huống trên, có hai quan điểm trái chiều:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Nguyễn Văn A. phạm tội “Dâm ô đối với người dưới 16 tuổi” quy định tại Điều 146 BLHS, bởi: Mặc dù A. có hành vi dùng vũ lực đối với cháu T. nhưng A. chỉ cần hôn vào môi, cổ cháu T. là đã xuất tinh mà không cần thực hiện việc giao cấu hoặc các hành vi quan hệ tình dục khác, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 2, khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP như đã nêu trên.
Quan điểm thứ hai, cũng là quan điểm của tác giả: Hành vi của Nguyễn Văn A. phạm tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” quy định tại Điều 142 BLHS, bởi: A. đã có hành vi dùng vũ lực (trói chân, bịt miệng) đối với cháu T. và thực hiện các hành vi trái ý muốn của cháu T., để thỏa mãn nhu cầu sinh lý của mình. Khi cháu P. sang phòng cháu T., vì sợ bị lộ nên A. đã bỏ chạy. Hơn nữa, về mặt khoa học pháp lý hình sự, hành vi “dâm ô” không quy định có yếu tố dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực... Như vậy, khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP quy định hành vi “dâm ô” có yếu tố dùng vũ lực, đe dạo dùng vuc lực… là chưa phù hợp.
Hai là, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP quy định về “Hành vi quan hệ tình dục khác” tại khoản 2 Điều 3 và “Dâm ô” tại khoản 3 Điều 3 có sự trùng lặp nhau, đều là hành vi của những người cùng giới hoặc khác giới, dùng bộ phận sinh dục nam, bộ phận khác trên cơ thể xâm nhập vào bộ phận sinh dục nữ, miệng, hậu môn của người khác với bất kỳ mức độ xâm nhập nào. Bởi, việc tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp qua lớp quần áo cũng đều là hành vi xâm nhập ở “bất kỳ mức độ nào”.
Ba là, điểm b khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP quy định: “Đưa các vụ án khác ra xét xử trong thời hạn không quá 1/2 thời hạn pháp luật cho phép đối với các trường hợp tương ứng”, còn có cách hiểu khác nhau do cụm từ “thời hạn xét xử”, bởi trong quy định của BLHS về thời hạn có liên quan đến việc xét xử bao gồm: Thời hạn chuẩn bị xét xử, thời hạn mở phiên tòa và thời gian tổ chức phiên tòa xét xử vụ án (thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 277 BLHS; pháp luật hình sự không khống chế thời gian tranh luận theo quy định tại khoản 3 Điều 322 BLHS; việc tạm ngừng phiên tòa không quá 05 ngày theo quy định tại khoản 2 Điều 251 BLHS; việc hoãn phiên tòa không được quá 30 ngày theo quy định tại khoản 2 Điều 297 BLHS). Như vậy, thời gian xét xử là thời hạn chuẩn bị xét xử hay bao hàm cả thời hạn mở phiên tòa và thời gian tổ chức phiên tòa để làm căn cứ tính thời hạn đưa các vụ án ra xét xử (loại trừ vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn) trong thời hạn không quá 1/2 thời hạn pháp luật cho phép trong các trường hợp tương ứng. Quan điểm tác giả trong trường hợp này thì thời hạn xét xử là thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định của BLHS. Tuy nhiên, với quy định này đã gây khó khăn cho việc xác định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án có bị hại là người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng; việc xác định 1/2 của 45 ngày là 22,5 ngày, vậy xác định thời hạn chuẩn bị xét xử kết thúc vào thời điểm nào của ngày thứ 23. Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP quy định “không quá 1/2” mang tính định tính, chỉ có thể xác định thời điểm kết thúc thời hạn chuẩn bị xét xử trong trường hợp này là từ ngày thứ 22 trở về trước để làm căn cứ ghi vào các văn bản tố tụng của tòa án.
Bốn là, quy định thời hạn xét xử không thống nhất với thời hạn tạm giam quy định tại khoản 1 Điều 419 BLHS trong trường hợp cả bị cáo và bị hại đều là người dưới 18 tuổi. Khoản 1 Điều 419 BLHS quy định: “Thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi bằng hai phần ba thời hạn tạm giam đối với người đủ 18 tuổi trở lên…”; đồng thời khoản 2 Điều 278 BLHS quy định: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật này”. Như vậy, thời hạn tạm giam đối với người bị buộc tội trong trường hợp phạm tội ít nghiêm trọng không quá 20 ngày, nghiêm tọng không quá 30 ngày, rất nghiêm trọng không quá 40 ngày, đặc biệt nghiêm trọng không quá 02 tháng. Trong khi đó, Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP quy định thời hạn xét xử không quá 1/2 thời hạn pháp luật cho phép đối với các trường hợp tương ứng như đã phân tích ở trên. Như vậy, sẽ phát sinh trường hợp thời hạn tạm giam sẽ vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử, điều này là bất hợp lý. Ví dụ: Đối với vụ án có bị cáo và bị hại đều là người dưới 18 tuổi, bị cáo phạm tội nghiêm trọng. Thời hạn chuẩn bị xét xử được xác định là 22 ngày, thời hạn tạm giam xác định là 30 ngày. Như vậy, thời hạn tạm giam đã vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử.
Đề xuất, kiến nghị
Trên cơ sở những vướng mắc, bất cập trong quá trình nghiên cứu, áp dụng pháp luật, tác giả đề xuất, kiến nghị như sau:
Một là, cần thiết đề xuất sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP theo hướng loại bỏ hành vi “dâm ô” khỏi quy định có liên quan đến tính chất vũ lực tác động đến nạn nhân, điều này sẽ phù hợp với các quy định của BLHS và khoa học pháp lý hình sự. Đồng thời, quy định tách bạch giữa “Hành vi quan hệ tình dục khác” và hành vi “Dâm ô”, giải thích rõ “Thời hạn xét xử” là gì hoặc hay thế bằng cụm từ “Thời hạn chuẩn bị xét xử” trong quy định của Nghị quyết số 06/2019/NQ-HĐTP để có cách hiểu thống nhất.
Hai là, thời gian tới, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao cần có hướng dẫn cụ thể, thống nhất cách xác định thời hạn chuẩn bị xét xử và thời hạn tạm giam đối với vụ án xâm hại tình dục có bị can, bị cáo, bị hại là người dưới 18 tuổi.
Trên đây là những ý kiến, quan điểm của tác giả trong quá trình nghiên cứu, áp dụng pháp luật tại Tòa án. Rất mong nhận được những chia sẽ, đóng góp từ quý đồng nghiệp.
VÕ MINH TUẤN
Tòa án Quân sự Khu vực 1 Quân khu 5