Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử lý vật chứng tại giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

16/08/2025
29
Vật chứng là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng trong tố tụng hình sự, có vai trò thiết yếu trong việc xác định sự thật khách quan, toàn diện và đầy đủ của vụ án. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) đã quy định khá rõ về việc thu thập, bảo quản và xử lý vật chứng. Tuy nhiên, trên thực tế và đặc biệt tại giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, vẫn còn tồn tại và bất cập.

Nội dung bài viết

    Việc thiếu các quy định cụ thể cũng như văn bản hướng dẫn đã gây ra sự lúng túng, thiếu thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xử lý vật chứng, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Việc kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự và ban hành các văn bản hướng dẫn về xử lý vật chứng tại giai đoạn này là cần thiết, nhằm bảo đảm vụ án được giải quyết toàn diện. Qua nghiên cứu và thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả có một số kiến nghị như sau:

    Một là, bổ sung quy định về khái niệm vật chứng tại Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình sự

    Tác giả cho rằng, quy định tại Điều 89 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) về vật chứng là đúng nhưng chưa đủ, bởi lẽ vật chứng tồn tại dưới dạng vật chất (vật, tiền, động vật và thực vật), có thể là động vật (động vật có trong sách đỏ,…) hoặc thực vật (cây thuốc phiện, cây cần sa, cây gỗ quý,…) và chỉ nên giới hạn vật chứng là chứng cứ của vụ án hình sự tồn tại dưới dạng vật chất mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập được trong quá trình giải quyết vụ án hình sự vì thực tế có một số vật chứng không thể thu thập được mà chỉ mô tả trong văn bản tố tụng là đủ (ví dụ: Tài sản bị người phạm tội hủy hoại…).

    Từ những lập luận, phân tích trên, tác giả kiến nghị cần bổ sung thêm nội dung tại Điều 89 BLTTHS như sau: “Vật chứng là vật, động vật hoặc thực vật trực tiếp liên quan đến tội phạm hoặc vật, tiền khác có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

    Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

    Hai là, đối với vật chứng là tài sản, đồ vật của người khác nhưng bị cáo sử dụng làm công cụ, phương tiện để phạm tội nhưng chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp từ chối nhận lại hoặc không xác định được chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp

    Nhằm bảo hộ quyền sở hữu tài sản của công dân được ghi nhận tại Điều 32 Hiến pháp năm 2013 và Điều 163 Bộ luật Dân sự, tuy nhiên, vấn đề xác định chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp đối với đồ vật, tài sản là vật chứng của vụ án theo trình tự, thủ tục ra sao chưa được BLTTHS quy định và hiện cũng chưa có hướng dẫn cụ thể của cơ quan có thẩm quyền. Qua thực tiễn xét xử thì vướng mắc trên gặp tương đối nhiều. Do BLTTHS hiện hành chưa có quy định cụ thể về trường hợp vật chứng là tài sản của người khác và phải trả lại cho chủ sở hữu nhưng chủ sở hữu từ chối nhận lại hoặc không xác định được chủ sở hữu nên tác giả kiến nghị bổ sung thêm nội dung sau vào khoản 3 Điều 106 BLTTHS để người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có cơ sở pháp lý cho việc xử lý đối với những vật chứng, tài sản thuộc trường hợp này:

    “e, Trường hợp trả lại vật chứng hoặc tài sản đã tạm giữ, thu giữ nhưng không phải là vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp mà chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp không nhận lại thì đối với tài sản có giá trị tịch thu sung ngân sách nhà nước hoặc đối với tài sản không có giá trị thì tịch thu, tiêu hủy.

    f, Trường hợp vật chứng hoặc tài sản đã tạm giữ, thu giữ nhưng không phải là vật chứng chưa xác định được chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp thì tại giai đoạn điều tra, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải ra thông báo công khai tìm kiếm chủ sở hữu. Nếu hết thời hạn chuẩn bị xét xử vẫn chưa xác định được chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp của tài sản đó thì khi xét xử, Hội đồng xét xử phải tuyên giao vật chứng hoặc tài sản đã tạm giữ, thu giữ nhưng không phải là vật chứng cho Cơ quan Thi hành án bảo quản và ghi rõ nếu trong thời hạn 01 năm kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được chủ sở hữu tài sản là động sản và 05 năm kể từ ngày thông báo công khai mà không xác định được chủ sở hữu tài sản là bất động sản, hết thời hạn mà không xác định được thì đối với tài sản có giá trị thì tịch thu sung ngân sách nhà nước và đối với tài sản không có giá trị thì tịch thu, tiêu hủy; kể từ ngày ra thông báo tìm kiếm công khai mà phát sinh tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng hoặc tài sản đã tạm giữ, thu giữ nhưng không phải là vật chứng thì sẽ xem xét giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự tại vụ án khác”.

    Ba là, bổ sung thêm khoản 5 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự

    Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành chưa có quy định xử lý người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vi phạm, gây hậu quả trong việc xử lý vật chứng, do đó tác giả đề xuất bổ sung nội dung sau:

     “5. Trường hợp người tiến hành tố tụng xử lý vật chứng trái quy định pháp luật thì tùy tính chất, mức độ, hành vi mà xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”.

    Bốn là, khái niệm vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được

    Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 BLTTHS thì “vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy”. Tác giả cho rằng, BLTTHS quy định việc tịch thu tiêu hủy đối với vật chứng không còn giá trị sử dụng hoặc không sử dụng được là cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay các cấp có thẩm quyền chưa ban hành văn bản hướng dẫn như thế nào là “vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được” để người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có căn cứ xác định để xử lý nên dẫn đến việc trong quá trình giải quyết vụ án có nhiều trường hợp người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã tự xác định vật chứng không còn giá trị theo ý chí cá nhân để xử lý.

    Từ đó, tác giả có kiến nghị như sau: “Vật chứng không có giá trị sử dụng là vật không có giá trị trao đổi; Vật chứng không sử dụng được là vật đã hỏng hóc, hư hại mất đi cơ bản tính năng, tác dụng, công dụng ban đầu nhưng vẫn có giá trị quy đổi”.

    Năm là, xác định vật chứng là hàng hóa máu hỏng hoặc khó bảo quản

    Hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền quy định như thế nào là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản, điều này dẫn đến việc xác định vật có phải là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản hay không phụ thuộc chủ yếu vào nhận định của cơ quan và ý chí cá nhân của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

    Từ bất cập trên, tác giả kiến nghị về việc xác định thế nào hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo quản như sau: “Trường hợp hàng hóa không phức tạp, mắt thường có thể nhận biết được (thực phẩm, phụ gia, nhu yếu phẩm có hạn sử dụng…) thì cơ quan tiến hành tố tụng xác định; Trường hợp hàng hóa có tính chất phức tạp, phải tiến hành thử nghiệm hoặc lấy mẫu để giám định (hóa chất, các loại thuốc bảo vệ thực vật…) thì tùy từng loại mà cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần yêu cầu cơ quan chuyên ngành có chuyên môn nghiệp vụ xác định theo quy định của pháp luật chuyên ngành”.

    Sáu là, biện pháp xử lý đối với vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý hiếm

    Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đã hướng dẫn tương đối cụ thể về việc áp dụng Điều 234 về tội "Vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã" và Điều 244 về Tội "Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm" của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi và bổ sung năm 2025). Tuy nhiên, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 7 của Nghị quyết vẫn chưa quy định cụ thể hình thức và cách thức xử lý đối với vật chứng là bộ phận của động vật nguy cấp, quý hiếm.

    Để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật và có tính răn đe với tội phạm này, tác giả kiến nghị “tịch thu sung quỹ nhà nước” đối với vật chứng này, bởi theo tác giả, tội phạm liên quan đến động vật hoang dã về bản chất là phạm tội với mục đích kinh tế hoặc nhu cầu sử dụng của cá nhân; giá trị của những bộ phận của động vật nguy cấp, quý hiếm rất cao, sử dụng được nhiều vào mục đích như y tế, làm đồ mỹ nghệ… Mặc dù người phạm tội biết được việc săn bắt, mua bán, tàng trữ bộ phận của động vật nguy cấp, quý hiếm bị nhà nước nghiêm cấm tuy nhiên nhiều người vẫn bất chấp thực hiện hành vi phạm tội để có được.

    Bảy là, vật chứng là tài sản chung của vợ chồng

    Mặc dù Tòa án nhân dân Tối cao chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, tuy nhiên tham khảo Công văn số 2160/VKSTC-V14 ngày 05/6/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao trường hợp phương tiện, công cụ phạm tội được hình thành từ nguồn vốn tài sản chung của vợ chồng thì tùy từng trường hợp, nếu xác định được vợ/chồng có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm (như biết rõ mà vẫn đồng ý hoặc cho phép) thì phương tiện, công cụ phạm tội đó có thể bị tịch thu toàn bộ; nếu xác định vợ/chồng không có lỗi trong việc để cho người phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm (như không biết việc chồng/vợ sử dụng vào việc phạm tội sử dụng vào việc phạm tội) thì có thể không tịch thu phần giá trị tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng.

    Do đó, tác giả kiến nghị Tòa án nhân dân Tối cao cần ban hành văn bản hướng dẫn xử lý vật chứng trong trường hợp này như sau:

    - Trường hợp một bên sử dụng tài sản chung để thực hiện hành vi phạm tội thì phải bị tịch thu sung quỹ nhà nước hoặc tịch thu và tiêu huỷ.

    - Trường hợp một bên sử dụng tài sản chung để thực hiện hành vi phạm tội nhưng qua các tài liệu, chứng cứ chứng minh được tài sản đó do bên còn lại mua hoặc được tặng, cho mà có thì phải trả lại. 

    - Trường hợp một bên sử dụng tài sản chung để thực hiện hành vi phạm tội và bên còn lại không biết thì phải tịch thu ½ giá trị tài sản chung của vợ chồng mà một bên sử dụng để phạm tội.

    Tám là, xử lý vật chứng sau khi giám định là vũ khí quân dụng hoặc do người phạm tội chế tạo ra

    Theo tác giả, đối với vụ án có vật chứng là vũ khí quân dụng hoặc do người phạm tội chế tạo ra thì phải xử lý như sau: Để tránh rủi ro trong quá trình xử lý (tiêu hủy) thì việc xử lý vật chứng này nên được nhận định trong bản án và giao cho Bộ chỉ huy quân sự cấp tỉnh tiến hành xử lý vì nếu xảy ra vấn đề phát sinh trong quá trình xử lý thì Bộ Chỉ huy quân sự cấp tỉnh là cơ quan có chuyên môn sẽ xử lý được, còn nếu giao cho Cơ quan Thi hành án thì sẽ không đảm bảo an toàn.

    Chín là, xử lý vật chứng là tài sản trong giao dịch bảo đảm

    Trước đặc điểm, tình hình tội phạm hiện nay, các nhà làm luật chưa có hướng dẫn cụ thể về xử lý tài sản trong trường hợp này.

    Tham khảo Công văn số 2160/VKSTC-V14 ngày 05/6/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao hướng dẫn, việc xử lý vật chứng là phương tiện, công cụ phạm tội là tài sản của người phạm tội đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng thì: “Theo quy định tại khoản 9 Điều 21 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ: “Trường hợp tài sản bảo đảm bị tiêu hủy, bị tổn thất toàn bộ hoặc bị phá dỡ, bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được xác định là không còn tài sản bảo đảm…”.

    Và quy định tại khoản 3 Điều 49 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP nêu trên thì: “Trường hợp Bộ luật Dân sự, luật khác liên quan quy định tài sản đang dùng để bảo đảm phải xử lý để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác thì tài sản này được xử lý theo quy định đó”.

    Như vậy, trường hợp bị can sử dụng tài sản đang thế chấp tại ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng vào việc phạm tội thì việc xử lý tài sản thực hiện theo quy định Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS tức là bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tịch thu tiêu hủy. Quyền lợi của ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng được giải quyết theo quy định về khởi kiện vụ án dân sự.

    Tác giả cho rằng, việc hướng dẫn xử lý vật chứng theo nội dung Công văn 2160/VKSTC-V14 ngày 05/6/2023 của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao là không phù hợp, không bảo đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của bên nhận đảm bảo (bên thứ 3 ngay tình). Trong trường hợp này tác giả kiến nghị vận dụng tinh thần tại Điều 14, Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị quyết số 63/2022/QH15) về hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự: “Sau khi hoàn tất thủ tục xác định chứng cứ và xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án, cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm hoàn trả vật chứng trong vụ án hình sự là tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo đề nghị của bên nhận bảo đảm là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu”.

    Từ đó, để vừa đảm bảo đúng quy định của BLTTHS và vừa đảm bảo quyền lợi của các chủ thể có liên quan, tác giả có quan điểm về xử lý vật chứng trong trường hợp vật chứng là tài sản bảo đảm như sau:

    - Trong trường hợp, nếu tài sản bảo đảm chỉ có 01 chủ sở hữu thì bên nhận bảo đảm và Cơ quan Thi hành án cùng bán đấu giá tài sản rồi bên nhận bảo đảm thu hồi số tiền gốc của khoản vay bảo đảm, sau đó còn thừa lại bao nhiêu tiền thì Cơ quan Thi hành án tịch thu sung ngân sách nhà nước.

    - Trong trường hợp, nếu tài sản bảo đảm có nhiều chủ sở hữu thì bên nhận bảo đảm, các chủ sở hữu và Cơ quan Thi hành án cùng bán đấu giá tài sản rồi bên nhận bảo đảm thu hồi số tiền gốc của khoản vay bảo đảm, sau đó số tiền còn lại thì chia phần trăm cho các cá nhân, tổ chức đã góp vốn vào tài sản bảo đảm đó rồi trả lại theo phần trăm, còn phần của bị cáo thì Cơ quan Thi hành án tịch thu sung ngân sách nhà nước.

    ANH DŨNG

    Tòa án Quân sự Khu vực Thủ đô Hà Nội

    ĐỖ DUY

    Tòa án Quân sự Khu vực Quân khu 3

    0911.219.599
    Top